TRUYỆN CÁC THÁNH

2011-08-20 19:57

 

 
 
 
 

Thánh Basiliô Cả - Thánh Grêgôriô Nazian

Ngày 02 tháng Giêng
THÁNH BASILIÔ CẢ
(Bổn mạng của các nhân viên bệnh viện)
THÁNH GRÊGÔRIÔ NAZIAN


Hai thánh Basiliô Cả và Grêgôriô Nazian đều được sinh ra tại Cappadoce, thuộc hai gia đình quí phái, danh tiếng, có địa vị vững chắc trong xã hội lúc đó. Hai vị thánh đều học cùng trường tại Athènes Hy Lạp, thành đạt trong việc học, hai Ngài đều cùng về quê hương và sống với nhau trong một mái nhà tu viện. Dù rằng tính khí mỗi người khác nhau, nhưng hai vị thánh đã sống nghĩa thiết chan hòa, sống theo gương mục tử nhân hậu hiền lành noi theo Chúa Giêsu. Thánh Basiliô có tài lãnh đạo, có óc tổ chức, chỉ huy, điều khiển. Thánh Grêgôriô Nazian lại thích chiêm nim, sống âm thầm và là một tu sĩ sáng ngời các nhân đức. Cả hai vị thánh đều được chọn làm Giám mục của hai Giáo phận. Thánh Basiliô được đặt làm Giám mục năm 370 tại Césarée de Cappadoce. Thánh Giám mục Basiliô là một mục tử can trường, đầy dũng khí, hiên ngang. Nhờ lòng dũng cảm: lời giảng dy, chữ viết và nhờ tài khéo léo, can thiệp trực tiếp của Ngài với Chính quyền, Ngài đã đem lại cho Hội Thánh một chỗ đứng vững chắc, tách quyền Giáo Hội ra khỏi thế quyền. Ngài giúp cho những người nghèo lấy lại phẩm giá của mình và bảo vệ đức tin của đoàn chiên cách sâu xa, vững chắc. Thánh Grêgôriô Nazian được tấn phong Giám mục Sasime năm 371, và vào năm 380, thánh nhân được cử làm Giám mục Constantinople giữa sóng gió do bè rối Ariô gây nên. Ngài có tài hùng biện, mọi người đều theo Ngài. Thánh nhân được đặt cho một cái tên hết sức thân thương:"Cha của những kẻ khốn cùng".
Thánh Basiliô qua đời ngày 01/1/379 và thánh Grêgôriô Nazian tạ thế ngày 25/1/390.

Lạy Chúa, Chúa đã làm cho Giáo Hội nên rạng rỡ nhờ gương sáng và lời giảng dạy của thánh Basiliô và thánh Grêgôriô. Xin cho chúng con biết khiêm nhường tìm hiểu chân lý của Chúa và hết lòng yêu mến đem ra thực hành.

(Truyện các Thánh – Tủ sách Thánh Thể)
 
 



Ngày 04 tháng Giêng

THÁNH ELIZABETH ANN SETON




Elizabeth chào đời tại thành phố New York ngày 29 tháng 08 năm 1774 và phải chịu mồ côi mẹ từ rất sớm, nhưng cô được sự quan tâm giáo dục của người cha là ông Richard Bayley. Cô có lòng đạo đức sâu xa và yêu thích đọc Kinh Thánh, đồng thời có lòng tín thác tuyệt đối vào sự Quan Phòng của Thiên Chúa.
Năm 19 tuổi, tại New York, Elizabeth lập gia đình với ông William Magee Seton. Cuộc hôn nhân đầm ấm hạnh phúc này đã cho ra đời năm người con. Sau khi người chồng từ trần, một số người bạn chí cốt của Elizabeth đã tiếp nhận người phụ nữ góa bụa đau khổ này về tại nhà của họ ở nước Ý, tại đây Elizabeth mới hiểu biết thế nào là cuộc sống của người Công Giáo đích thực.
Elizabeth trở lại New York vào năm 1804 và gia nhập Giáo hội Công Giáo vào ngày 14 tháng 03 năm 1805. Bà nhận lời thỉnh nguyện của đức Tổng Giám mục Carroll để mở một trường dành cho nữ sinh tại Baltimore. Nhiều phụ nữ ngỏ lời với bà muốn dâng mình cho Chúa trong đời sống tu trì và bà được nhiều người biết đến với danh xưng “Mẹ Bề trên Seton”. Nhóm phụ nữ cộng tác với Mẹ Elizabeth này được gọi là Nữ Tu Bác Ái và họ sống tại Emmitsburg. Đây là bước đầu thành hình các cộng đoàn nữ tu tại Hoa Kỳ.
Các trẻ em trong các giáo xứ đến xin học tại trường do nhóm nữ tu này thành lập, đó là các trường tư thục Công Giáo đầu tiên có mặt tại nước Mỹ. Mẹ Elizabeth từ trần vào ngày 04 tháng 01 năm 1821. Năm 1963, mẹ chính là người công dân sinh trưởng tại Hoa Kỳ đầu tiên được phong Chân phước và vào ngày 14 tháng 09 năm 1975, mẹ được Đức Phaolô VI nâng lên bậc Hiển Thánh.

Lạy Chúa, Chúa đã hướng dẫn thánh Elizabeth trong Hội Thánh Chúa để ngài lại có thể dạy dỗ người khác trên con đường cứu rỗi. Xin cho chúng con biết bước theo Đức Kitô, noi gương thánh nữ cùng với cộng đoàn anh chị em mình quyết tâm tìm kiếm Chúa là nguồn hạnh phúc đích thực của con người.

(Truyện các Thánh – Tủ sách Thánh Thể)
 

Ngày 05 tháng Giêng
 
THÁNH GIOAN NEWMAN


Thánh Gioan Newman chào đời tại nơi mà hiện nay là nước Tiệp Khắc. Sau khi theo học tại Prague, năm 25 tuổi, ngài đến New York và tại đây được thụ phong linh mục. Ngài làm việc truyền giáo tại tiểu bang New York cho tới năm 29 tuổi thì gia nhập dòng Chúa Cứu Thế và ngài chính là người đầu tiên của Hội dòng này được tuyên khấn tại Hoa Kỳ.

Thánh nhân tiếp tục công việc truyền giáo tại bang Maryland, Virginia và Ohio. Tại những nơi này, ngài trở nên rất quen thuộc với những người gốc Đức. Cha Newman đã từng phục vụ tại các giáo xứ ở New York, Baltimore và Pittsburg. Sau đó, ngài giữ chức vụ Phó Giám tỉnh dòng Chúa Cứu thế ở Hoa Kỳ.

Cha Newman được chọn làm giám mục giáo phận Philadelphia vào năm 1852 khi ngài được 41 tuổi. khả năng xuất chúng của đức cha Newman là tài tổ chức. Ngài quy tụ về thành phố rất nhiều các tu sĩ nam nữ thuộc các hội dòng giảng thuyết để làm công tác huấn luyện. Thời ngài làm giám mục, hơn 80 ngôi thánh đường đã được xây dựng.

Thánh Gioan Newman thông thạo 8 ngôn ngữ, cả thổ ngữ và ngôn ngữ hiện đại. Ngài đến thăm mọi nơi trong giáo phận bao la do ngài phụ trách, khi thì bằng thuyền máy, khi thì bằng xe ngựa, lúc thì đi xe lửa, có khi cuốc bộ để tìm đến với các linh hồn đang cần đến lòng Chúa xót thương. Thánh nhân là người tiên phong trong việc tổ chức cho có hệ thống các trường tư thục Công giáo và soạn thảo sách giáo lý tại Hoa Kỳ. Ngài qua đời vào năm 1860 sau khi đã hoàn thành nhiệm vụ Chúa trao và được nâng lên hàng chư thánh ngày 19 tháng 07 năm 1977.

Lạy Chúa, Chúa là Ánh Sáng và là Mục Tử chăn dắt các linh hồn. Chúa đã đặt thánh Gioan làm giám mục trong Hội Thánh Chúa để đoàn chiên Chúa được nuôi dưỡng bằng lời hằng sống và được dẫn dắt bằng gương của thánh nhân. Nhờ lời thánh Gioan Newman cầu bầu, xin giúp chúng con sống niềm tin mà thánh nhân đã giảng dạy và bước theo con đường ngài đã nêu gương.

 



 
THÁNH EDWARD


Edward lên ngai vua nước Anh vào tuổi tròn 40, trước đó 27 năm ngài phải sống cảnh lưu đày. Mặc dù để chìu lòng dân chúng, ngài bước vào đời sống gia đình, nhưng ngài đã cùng với người vợ là hoàng hậu Edith sống trong chay tịnh và tiết chế.

Một trong những người quý phái sống trong hoàng cung đã viết về ngài như sau : “Là vua trần thế, nhưng Edward được chọn để phụng sự Thiên Chúa và Nước Trời. Trong việc điều hành vương quốc của mình, ngài đã sống cuộc sống như một thiên thần, và vì thế, chính Thiên Chúa đã hướng dẫn ngài. Ngài quá tốt lành đến nỗi không hề nói một lời nào thiếu tử tế ngay cả với người dân tầm thường nhất.”

Edward sống rộng rãi với cả những ai nghèo khó và xa lạ. Ngài thường đứng ngay trước cổng cung điện, nói năng nhã nhặn với những kẻ ăn xin nghèo khó và phong cùi. Họ lũ lượt đến xin ngài lòng xót thương, và nhiều người trong số này đã được ngài chữa lành bệnh tật. Mặc dù bận bịu đủ thứ việc, ngài luôn có mặt trong các thánh lễ hàng ngày. Vị vua thánh thiện này rất nhiệt thành trong việc xây dựng và trang hoàng các ngôi thánh đường. Công việc cuối cùng của đời ngài là xây dựng đan viện Westminster. Vua Edward qua đời vào ngày 05 tháng 01 năm 1065. Ngài được phong thánh vào năm 1611 và 2 năm sau, xác không hư nát của ngài được thánh Tôma Becket đem dời về một ngôi đền trong đan viện.

Lạy Chúa, Chúa đã đội triều thiên cho thánh Edward trên nước vinh quang vĩnh cửu. Xin cho chúng con khi còn ở dưới thế biết noi gương và tôn kính thánh nhân, để chúng con có thể cùng ngài chung hưởng vinh phúc trên trời mai sau.

 
(Truyện các Thánh – Tủ sách Thánh Thể)
 



Ngày 17 tháng Giêng

THÁNH ANTÔN VIỆN PHỤ


Thánh Antôn sinh vào năm 251 tại Ai Cập. Ngài muốn thực hiện trọn vẹn những lời này của Chúa : “Nếu bạn muốn nên trọn lành, hãy đem bán những gì mình đang có mà phân phát cho người nghèo.” Lúc còn trẻ, ngài đã cho đi tất cả những gì mình có và xin một vị ẩn sĩ giảng dạy cho biết thế nào là sống một cuộc đời thánh thiện. Thánh Antôn đến thăm nhiều vị ẩn sĩ và cố gắng bắt chước gương sáng của họ. Ngài lui vào sa mạc, ở đó, trong nhiều năm, ngài sống cuộc đời của một vị ẩn sĩ. Ngài dâng hiến đời mình cho Thiên Chúa bằng việc liên lỉ cầu kinh và sám hối.
Trong vòng hơn 20 năm, thánh Antôn thường bị ma quỷ đến cám dỗ, nhưng ngài đã vượt thắng những cơn cám dỗ ấy bằng lời cầu nguyện và những hy sinh. Nhiều người lũ lượt tìm đến với thánh nhân để có được những lời khuyên dạy. Ngài đồng ý hướng dẫn họ trên con đường nên thánh. Bằng cách đó, ngài thành lập những đan viện đầu tiên, thế nên thánh Antôn được gọi là cha đẻ của đời sống đan tu và là ông tổ của các đan sĩ.
Các phép lạ thánh nhân làm đã kéo thật đông người ta tìm đến đan viện khiến ngài lại phải trốn vào sa mạc, để sống bằng công việc nặng nhọc và nguyện cầu trong thinh lặng. Thánh Anathaxiô, người viết tiểu sử của thánh Antôn, đã cho rằng : chỉ cần biết về cách sống của thánh Antôn cũng đủ là một cuốn kim chỉ nam cho việc thực hành mọi nhân đức.
Thánh nhân qua đời vào năm 356, khi ngài được 105 tuổi.

Lạy Chúa, Chúa đã cho thánh Antôn Viện phụ sống một đời phi thường trong sa mạc để phụng sự Chúa. Xin Chúa nhận lời người chuyển cầu, cho chúng con biết quên mình, để một niềm yêu mến Chúa trên hết mọi sự.


(Truyện các Thánh – Tủ sách Thánh Thể)
 
 

 
Ngày 20 tháng Giêng

THÁNH SEBASTIANÔ
(Bổn mạng các lực sĩ và binh sĩ)


Sebastianô là con trai của một gia đình giàu có. Chàng trở thành viên đại úy chỉ huy những người lính cận vệ của hoàng đế Rôma. Vào thời đó, hoàng đế gây nên rất nhiều khổ đau cho người Kitô hữu. Sebastianô giúp đỡ họ bằng cách đến viếng thăm họ trong các nhà tù, mang tiền bạc quần áo và đồ ăn cho họ.
Một lần kia, Sebastianô chữa lành cho vợ của một người lính bằng cách làm dấu Thánh Giá trên bà ta. Cả bà lẫn người chồng xin được rửa tội. Chàng cũng hoán cải viên thống đốc ở Rôma và nhiều người khác nữa.
Sebastianô bị tố cáo là một Kitô hữu và buộc phải chết. Chàng bị trói chặt vào cột và những người lính bắn cung tên vào thân thể. Đêm hôm ấy, một phụ nữ là người Kitô hữu nghĩ rằng chàng đã chết, nên đã cùng vài người đàn ông nữa khiêng vị tử đạo về nhà của bà và chuẩn bị công việc chôn cất. Thế nhưng Sebastianô vẫn còn sống. Bà chăm sóc thánh nhân cho đến khi ngài được bình phục.
Sebastianô trở lại gặp hoàng đế và xin ông hãy đối xử tốt với các Kitô hữu. Nhưng hoàng đế lại ra lệnh cho lính giết Sebastianô chết. Sau khi chết, vị tử đạo đã hiện ra với người phụ nữ thánh thiện trước đây và chỉ cho bà để bà có thể tìm thấy xác của thánh nhân. Thế rồi xác của ngài được đem về hang toại đạo và chôn cất tại đó.

Lạy Thiên Chúa toàn năng, xin ban cho chúng con thần khí dũng cảm, để chúng con noi gương thánh tử đạo Sebastianô, biết vâng phục Chúa hơn vâng phục người phàm.


(Truyện các Thánh – Tủ sách Thánh Thể)
 
 
 





Ngày 21 tháng Giêng
THÁNH ANÊ
(Bổn mạng thiếu nhi Đức Mẹ)


Khi Anê bị dẫn tới bàn thờ để dâng hương cho nữ thần ngoại giáo Minerva ở Rôma, thánh nữ chỉ mới lên 12 tuổi. Nhưng Anê đã dâng trao đôi tay của mình cho Chúa Giêsu rồi làm dấu Thánh Giá.
Quân lính trói tay chân thánh nữ lại. Đôi bàn tay của Anê quá thon nhỏ đến nỗi vòng xích đã trượt khỏi cổ tay cô. Khi quan tòa nhận thấy cô đã không sợ đớn đau, ông đã truyền cho cởi quần áo cô và bắt cô phải đứng trước đám đông dân ngoại. Thánh nữ bèn kêu lớn : “Đức Kitô sẽ canh giữ những kẻ thuộc về Người!”
Trong lúc đám đông quay mặt đi không nhìn thì một thanh niên dám đăm đăm nhìn vào thánh nữ cùng với ý nghĩ đầy tội lỗi. Một tia sáng chói lòa tức khắc làm hắn bị đui mù.
Anê buộc phải kết hôn với một thanh niên giàu có, nhưng thánh nữ đã trả lời : “Chúa Kitô là vị hôn phu của tôi. Người đã chọn tôi trước nên tôi là của Người. Người đã làm cho linh hồn tôi nên rạng ngời xinh đẹp bằng nữ trang ân sủng và các nhân đức. Tôi thuộc về Người. Người là Đấng được các thiên sứ phụng thờ.”
Sau khi cầu nguyện, thánh nữ đưa cổ mình cho lưỡi gươm của lý hình. Đầu thánh nữ tách khỏi thân mình và các thiên sứ đem linh hồn Anê về thiên đàng.
Tên Anê do bởi danh từ La-tinh “Agnus”, có nghĩa là “con chiên”. Điều này nhắc nhở chúng ta về tính hiền lành dễ thương của thánh nữ.

Lạy Thiên Chúa toàn năng hằng hữu, Chúa đã chọn những gì thế gian cho là yếu kém để hạ nhục những gì hùng mạnh. Mừng kỷ niệm ngày thánh nữ Anê tử đạo về trời, xin cho chúng con hằng noi gương thánh nữ mà giữ vững đức tin.

(Truyện các Thánh – Tủ sách Thánh Thể)
 
 



Ngày 24 tháng Giêng
THÁNH PHANXICÔ SALÊ
(Bổn mạng các văn sĩ)


Phanxicô sinh ra trong một lâu đài ở nước Pháp vào năm 1567. Khi cậu được rửa tội, mẹ cậu đã nói : “Giờ đây hỡi con của mẹ, con là bạn của các thiên thần, là anh em cua của Đức Giêsu, là đền thờ của Chúa Thánh Thần và là một thành viên của Hội Thánh. Từ giờ phút này, con sẽ thuộc về Thiên Chúa mãi mãi.”
Khi Phanxicô lên 9 tuổi, cậu thường xuyên rước Chúa vào lòng. Cậu nói : “Chúa Giêsu là Thầy dạy sự thánh thiện. Tôi đến cùng Người bởi vì tôi muốn Người dạy tôi biết cách trở thành một vị thánh. Có ích lợi gì cho tôi, nếu tôi học được mọi điều ở trường nhưng tôi lại không nên thánh?”
Một ngày kia, khi Phanxicô đã trở thành một luật sư, chàng nghe thấy có tiếng nói với mình : “Hãy từ bỏ mọi sự và theo Ta.” Vâng theo tiếng Thiên Chúa gọi, thánh nhân đáp lại : “Con muốn đi khắp nơi tìm kiếm những người nghèo và tội nhân để con đem họ về cho Ngài, lạy Chúa Giêsu.”
Được thụ phong linh mục, bằng lời giảng dạy và lòng nhân hậu của cha, Phanxicô đem nhiều linh hồn về cho Chúa. Sau này, cha Phanxicô trở thành giám mục thành Geneva. Thánh nhân viết rất nhiều sách, và đó là lý do tại sao ngài được tôn phong danh hiệu là bổn mạng các văn sĩ Công Giáo. Cùng với thánh nữ Gioanna đệ Chantan, thánh nhân lập hội dòng Thăm Viếng. Ngài qua đời năm 1622.

Lạy Chúa, Chúa đã cho thánh Phanxicô Salê, giám mục, biết trở nên tất cả để hòa mình với mọi người, hầu muôn dân được ơn cứu độ. Xin cho chúng con hằng noi gương thánh nhân để lại, biết hết lòng phục vụ anh em, để làm chứng lòng yêu thương nhân hậu của Chúa.

(Truyện các Thánh – Tủ sách Thánh Thể)
 
 



Ngày 27 tháng Giêng
THÁNH ANGÊLA MÊRIXI


Thánh Angêla sinh tại Ý vào năm 1470. Năm 15 tuổi, ngài gia nhập dòng Ba Phan Sinh. Trong một thị kiến, ngài được Thiên Chúa tỏ ý muốn ngài thành lập một nhóm phụ nữ đạo đức và nhiệt thành, dám hiến dâng cuộc đời của họ cho việc phụng sự Thiên Chúa.
Năm 22 tuổi, thánh nữ trở lại quê hương xứ sở của mình và thấy rằng các bậc cha mẹ đã không còn biết dạy dỗ con cái của họ, ngay cả những chân lý căn bản nhất của niềm tin tôn giáo. Angêla chia sẻ những tâm tư này với một số bạn bè thân hữu của mình và cùng với những phụ nữ này quy tụ các trẻ nữ trong làng để chúng được thường xuyên dạy dỗ. Thánh Angêla khởi sự công việc với 12 người bạn cùng chí hướng tại Brescia. Đây chính là bước đầu thành lập của tu hội Ursuline, một tu hội đời trong Giáo Hội dành cho các phụ nữ chuyên lo việc dạy học. Angêla chọn thánh Ursula làm đấng bảo trợ là vì vị thánh được phúc tử đạo này cũng được nhìn nhận là gương mẫu lý tưởng cho các Kitô hữu khấn giữ đức trinh khiết.
Vào năm 1535, 28 phụ nữ trẻ cùng với thánh Angêla dâng hiến trọn vẹn cuộc đời của họ để phụng sự Thiên Chúa.. Họ là những chị em sống cuộc đời thánh thiện ngay giữa gia đình của họ. Họ thường xuyên gặp gỡ nhau để học hỏi và linh thao, trong khi làm các bổn phận được trao cho họ. Mẹ Angêla được chọn làm vị bề trên của tu hội và tiếp tục chức vụ này trong vòng 5 năm cuối của cuộc đời một thánh nhân.

Lạy Thiên Chúa nhân từ, Chúa đã cho thánh nữ Angêla trinh nữ nên gương bác ái và khôn ngoan cho người thế ; vì lời thánh nữ chuyển cầu, xin cho chúng con cũng noi theo gương người mà trung thành tuân giữ lời Chúa dạy, và tuyên xưng đức tin trong cuộc sống hàng ngày.

(Truyện các Thánh – Tủ sách Thánh Thể)
 
 
 
 
Ngày 28 tháng Giêng
THÁNH TÔMA AQUINÔ
(Bổn mạng các trường học Công Giáo)



Tôma sinh tại Aquinô, nước Ý. Học xong đại học ở Naples, Tôma đến sống với các cha dòng Đa Minh. Hai người anh của Tôma bắt cậu về và nhốt giam trong một lâu đài gần 2 năm trời với ý định không cho cậu trở lại tu viện nữa.
Đức Giáo Hoàng triệu Tôma về Rôma để được nói chuyện với cậu. Ngài cũng ra lệnh cho mẹ và các anh của Tôma không được ngăn cản con đường tiến tới ơn gọi của Tôma. Tôma trở lại với các cha dòng Đa Minh và được gởi đi học tại Pháp và Đức.
Tôma được thụ phong linh mục và trở thành một bậc thầy lỗi lạc. Cha viết nhiều sách về các giáo huấn của Hội Thánh Công Giáo. Ai cũng thấy được lòng mến cao độ của cha đối với Chúa Giêsu trong Bí tích Thánh Thể. Ngài đã viết những kinh nguyện và những bài thánh ca mà Giáo Hội ngày nay vẫn còn sử dụng để sùng kính và tôn vinh Thánh Thể.
Ngày kia đang lúc cha Tôma cầu nguyện trước một tượng chịu nạn lớn, Chúa nói với thánh nhân : “Tôma hỡi, con đã viết rất tuyệt vời về Ta. Để bù lại, con muốn điều gì?” – Ngài trả lời : “Thưa Chúa, ngoài Chúa ra, con không muốn điều gì khác!”
Cha thánh qua đời vào năm 1274 khi ngài được 47 tuổi.

Lạy Chúa, Chúa đã làm cho thánh Tôma trở nên một bậc thầy lỗi lạc, vì đã ban cho người lòng tha thiết sống cuộc đời thánh thiện và hăng say giảng dạy đạo lý cao siêu. Xin Chúa thương mở lòng soi trí để chúng con ngày càng hiểu biết điều người dạy và ra công bắt chước việc người làm.

(Truyện các Thánh – Tủ sách Thánh Thể)
 



Ngày 31 tháng Giêng
THÁNH GIOAN BOSCO
(Bổn mạng các nhà xuất bản)


Khi còn là một thiếu niên, Gioan đã học biết nhiều trò mánh lới bằng cách quan sát những nhà làm xiếc. Cậu tụ họp bọn con trai nhỏ chung quanh mình và biểu diễn những trò độc đáo. Sau đó cậu lặp lại những bài giảng cậu đã nghe ở nhà thờ.
Vào tuổi 13, Gioan phải xa nhà và đến làm việc cho một chủ nông trại, rồi cho một thợ may, một chủ tiệm bánh mì và cả cho một xưởng mộc nữa. Bằng cách đó, cậu tự nuôi sống mình khi cậu học tại đại học và chủng viện rồi sau đó trở thành một linh mục.
Giới thanh thiếu niên rất yêu mến cha Gioan. Cha tìm chỗ cho chúng gặp gỡ, vui chơi và cầu nguyện. Khi những người hàng xóm than phiền vì tiếng ồn ào, cha Gioan bèn thuê một nhà kho cũ ở ngoài đồng. Cha gọi đó là hội trường và cha bắt đầu giảng nhiều bài hùng hồn cho các cử tọa thiếu nhi. Cha tin rằng việc cầu nguyện và các Bí tích là những phương thế tốt nhất giúp cho bọn trẻ nên tốt lành.
Cha Don Bosco cũng thành lập hội dòng Salesien, đó là một nhóm linh mục cộng tác với cha trong công việc giúp các thanh thiếu niên. Cha Gioan Bosco mở các loại cửa hàng để dạy thanh thiếu niên biết làm việc trong nhiều ngành nghề khác nhau. Cha còn viết những cuốn sách nhỏ và bọn trẻ đã in thành nhiều ấn bản cho người ta đọc.
Cha Gioan Bosco qua đời năm 1888 vào tuổi 73.
Một trong những danh hiệu mà học trò của ngài sau này dâng tặng ngài là “Don Bosco là Cha, là Thầy và là Bạn của giới trẻ!”

Lạy Chúa, Chúa đã cho xuất hiện trong Hội Thánh một người cha và một bậc thầy của giới thanh thiếu niên là thánh linh mục Gioan Bosco. Xin Chúa cũng đốt lửa yêu mến trong lòng chúng con, để chúng con biết phụng sự một mình Chúa là lo cho anh em được cứu độ.

(Truyện các Thánh – Tủ sách Thánh Thể)
 
 
 
 
Ngày 14 tháng Hai
THÁNH SYRILÔ VÀ THÁNH MÊTÔĐIÔ
(Bổn mạng nước Moravia)



Hai anh em Syrilô và Mêtôđiô thuộc dòng dõi nghị viện ở Thessalonica, nhưng mẹ của hai ngài là một người nô lệ. Syrilô đến Constantinôp, nơi đây ngài được thụ phong linh mục, Syrilô dạy triết học tại trường đại học và bênh vực Tin Mừng Chúa Kitô. Còn Mêtôđiô, người anh cả, sau khi làm thủ lãnh một trong những bộ tộc người nô lệ, đã trở thành viện phụ của một tu viện tại Hy Lạp.
Vào năm 862, Ratislav, hoàng tử nước Moravia xin với hoàng đế Micae III gởi đến cho ông các nhà truyền giáo để dạy tiếng địa phương cho dân chúng. Hai anh em được phái đến triều đình ở Velehrad. Họ còn muốn có giám mục để phong thêm các linh mục khác. Hai anh em hành hương đến Rôma mang theo hài cốt của thánh Giáo Hoàng Clêmentê. Đức Giáo Hoàng Arian II tấn phong các ngài lên hàng giám mục và cho phép sử dụng ngôn ngữ Slave trong Phụng Vụ.
Thánh Syrilô qua đời tại Rôma. Thánh Mêtôđiô tiếp tục hoạt động tông đồ và gặt hái được nhiều thành công tại Moravia, Bohemia, Ba Lan và các nước lân cận. Ngài giới thiệu ngôn ngữ của dân Slave và dịch Kinh Thánh sang tiếng nước này. Ngài tạ thế ở Moravia ngày mồng 6 tháng 4 năm 885. Hai thánh Syrilô và Mêtôđiô được dân Slave tôn kính như các vị tông đồ của họ.

Lạy Chúa, Chúa đã dùng hai anh em thánh Syrilô và thánh Mêtôđiô, để đưa các dân tộc Slavonia tới ánh sáng Tin Mừng. Xin mở lòng chúng con đón nhận lời Chúa dạy, và biến đổi chúng con thành dân riêng của Chúa, luôn đồng tâm nhất trí với nhau, để sống đức tin chân thật và thẳng thắn tuyên xưng.

(Truyện các Thánh – Tủ sách Thánh Thể)
 
 
 
 
Ngày 18 tháng Hai
THÁNH BERNADETTE



Cha mẹ của Bernadette rất nghèo và sống gần Lộ Đức, nước Pháp. Một ngày kia, vào năm 1858, đang khi Bernadette đi kiếm củi, một người đàn bà tuyệt đẹp hiện ra, đứng trong một cái hang trước mặt cô. Người đàn bà mặc áo màu xanh pha lẫn màu trắng, có những đóa hoa hồng phủ kín bàn chân. Bà mỉm cười với Bernadette rồi xin cô cùng lần chuỗi Mân Côi với bà. Đó chính là Đức Mẹ Maria!
Bernadette nhìn thấy Đức Mẹ 18 lần. Một lần kia, Mẹ nói : “Ta không hứa ban cho con hạnh phúc trên đời này, nhưng là trên thiên đàng.”
Đám đông dân chúng theo Bernadette tới hang để lần hạt Mân Côi với cô, nhưng họ không được nhìn thấy Đức Mẹ.
Đức Mẹ xin Bernadette hãy xới đất lên. Một suối nước kỳ diệu chảy trào lai láng. Rất nhiều người đến đây hành hương đã được chữa lành nhờ giếng nước này.
Khi Bernadette xin Đức Mẹ cho biết tên của bà, vừa nhìn lên trời, Mẹ vừa nói : “Ta là đấng Vô Nhiễm Nguyên Tội.” Mẹ nhắn nhủ rằng : “Hãy cầu nguyện cho kẻ có tội.” Mẹ còn truyền cho xây một nhà nguyện ở gần hang. Ngày nay, nơi đây là một đền thờ thật lớn dâng kính Trinh Nữ Maria.
Về sau, Bernadette trở thành một nữ tu. Cuộc đời thánh nữ là một chuỗi những đau khổ trong niềm hân hoan cảm tạ. Bernadette qua đời vào tuổi 36.

Lạy Chúa là đấng Bảo Trợ và Yêu Thương những kẻ khiêm nhường. Chúa đã ban cho tôi tớ Chúa là thánh nữ Bernadette đặc ân chiêm ngưỡng Đức Trinh Nữ Maria Vô Nhiễm Nguyên Tội và truyện vãn với Mẹ. Xin ban cho chúng con được xứng đáng chiêm ngưỡng Chúa trên thiên đàng mai sau.

(Truyện các Thánh – Tủ sách Thánh Thể)
 
 
 
 
Ngày 27 tháng Hai
THÁNH GABRIEL
(Bổn mạng hàng Giáo sĩ)



Gabriel sinh tại Assisi ngày 01 tháng 03 năm 1838 và là con thứ 11 trong một gia đình có 13 người con. Cậu là người rất ham mê những thú vui trần thế, nhưng được Đức Trinh Nữ Maria trong hội dòng Đức Bà Thương Khó hướng dẫn, cậu đã trở nên vị tông đồ đích thực của Mẹ Sầu Bi.
Không có gì là phi thường đối với cuộc đời của Gabriel, ngoài việc thánh nhân luôn trung thành cầu nguyện, yêu thích hy sinh và lúc nào cũng vui vẻ. Khi được 23 tuổi, ngay lúc Gabriel vừa hoàn tất việc học để lãnh chức linh mục, thầy đã mắc phải bệnh lao và qua đời một năm sau tại Isola ngày 17 tháng 02 năm 1862.
Chẳng có lấy một biến cố lạ lùng nào xảy ra trong đời Gabriel, nhưng sau khi thánh nhân qua đời, nhiều phép lạ đã xảy ra tại chính ngôi mộ của ngài.
Ngài được gọi là thánh Gabriel của Đức Mẹ Sầu Bi, bởi vì ngài có lòng yêu mến dạt dào đối với Đức Maria, đấng cùng chịu khổ đau với Con của Mẹ.
Càng nhớ tới Chúa Giêsu và Mẹ Maria trong các nỗi thống khổ các Ngài phải chịu, càng làm cho thánh Gabriel quảng đại hơn nữa để chứng tỏ lòng yêu mến của mình. Bạn hãy noi gương thánh trẻ này bằng cách năng nghĩ tới những nỗi sầu khổ của Đức Maria, để qua sự chăm sóc đầy tình mẫu tử của Mẹ, bạn có thể đạt tới sự thánh thiện và có thể cứu được linh hồn mình.

Lạy Chúa, Chúa đã dạy thánh Gabriel biết ngắm nhìn những nỗi thống khổ của Mẹ Maria, Nữ Vương Nhân Ái và đã giúp thánh nhân đạt tới vinh quang thánh thiện nơi các phép lạ ngài vẫn thực hiện. Xin Chúa thương ban cho chúng con cũng được chia sẻ những nỗi sầu thương của Thánh Mẫu Người và được hưởng ơn cứu độ, nhờ Mẹ luôn che chở phù trì.

(Truyện các Thánh – Tủ sách Thánh Thể)
 
 



Ngày 08 tháng Ba
THÁNH GIOAN THIÊN CHÚA
(Bổn mạng những người bán sách và những ai mắc bệnh tim)



Gioan sinh tại Bồ Đào Nha năm 1495. Cậu là đứa chăn cừu cho tới năm 20 tuổi. Trong suốt 18 năm sau đó, Gioan là một quân nhân tại nhiều miền đất của châu Âu. Ngay dù khi Gioan đang có một cuộc sống bừa bãi thiếu nghiêm túc, chàng vẫn luôn yêu thương kẻ nghèo khó và người đau khổ.
Ngoài 40 tuổi, Gioan mới rời quân ngũ và từ bỏ cuộc đời tội lỗi. Chàng trở lại Tây Ban Nha và thuê một căn nhà. Tại đây, Gioan quy tụ tất cả những người bệnh tật, nghèo khó và vô gia cư trong thành phố Granada. Chính thánh nhân thường cõng họ trên lưng và đưa về nhà mình, rồi tắm rửa cho họ, hoặc băng bó các vết ghẻ chốc của họ, đồng thời đi xin đồ ăn thức uống cho họ. Thánh nhân cũng đã đưa nhiều tội nhân trở lại cùng Chúa.
Nhiều người quảng đại bắt đầu giúp cho thánh nhân thực hiện công việc của ngài. Hội dòng do ngài sáng lập dần dần lớn mạnh và được người ta biết đến với cái tên là Dòng Phục Vụ Bệnh Nhân của thánh Gioan Thánh Giá. Phương châm thánh nhân chọn cho các tu sĩ của mình là : “Lao động không ngừng, làm mọi việc tốt bạn có thể làm, trong lúc bạn còn thì giờ!”
Sau khi cứu một người đàn ông khỏi chết đuối, thánh Gioan trở nên rất yếu. Vào ngày 08 tháng 03 năm 1550, các y tá thấy người đang quỳ trước một tượng chịu nạn, mặt thánh nhân gục vào chân Chúa Giêsu. Ngài đã tắt thở.

Lạy Cha, Cha đã cho thánh Gioan được tràn đầy tình thương đối với kẻ nghèo và người bệnh tật. Xin cho chúng con cũng biết đem lòng bác ái phục vụ anh em, hầu đáng hưởng vinh quang Nước Trời với những người được Cha tuyển chọn.


(Truyện các Thánh – Tủ sách Thánh Thể)
 
 
 
Ngày 09 tháng Ba
THÁNH ĐAMINH SAVIO
(Bổn mạng của thiếu nhi)<